Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

22 điều nên làm để trở thành con người hạnh phúc.


Câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để họ làm điều đó? và dưới đây là 22 điều nên làm để trở thành con người hạnh phúc.
Nó khá đơn giản. Người hạnh phúc có những thói quen tốt nhằm nâng cao cuộc sống của họ. Họ làm mọi thứ một cách khác biệt. Hỏi bất kỳ một người hạnh phúc nào, và họ sẽ cho bạn biết rằng họ …

1. Không giữ mối hận thù

Người hạnh phúc hiểu rằng tốt hơn là nên tha thứ và quên hơn là để cho cảm xúc tiêu cực của lấn át những cảm xúc tích cực. Việc giữ một mối hận thù có rất nhiều tác động bất lợi đến tinh thần của bạn, bao gồm sự gia tăng trầm cảm, lo âu, và căng thẳng. Tại sao bạn có thể để cho người đã đối xử bất công với bạn có quyền lực hơn bạn? Nếu bạn cho đi của tất cả các mối hận thù của bạn, bạn sẽ đạt được một lương tâm trong sáng và năng lượng đủ để tận hưởng những điều tốt đẹp trong cuộc sống.

2. Đối xử với tất cả mọi người với lòng tốt

Bạn biết rằng nó đã được khoa học chứng minh rằng nhân hậu làm cho bạn hạnh phúc hơn? Mỗi khi bạn thực hiện một hành động nhân đạo, bộ não của bạn sản xuất serotonin, một loại hormone giúp giảm bớt căng thẳng và nâng cao tinh thần của bạn. Không chỉ vậy, đối xử với mọi người bằng tình yêu, nhân phẩm, và sự tôn trọng còn cho phép bạn xây dựng những mối quan hệ vững bền.

3. Xem các vấn đề như những thách thức

“Vấn đề” không bao giờ là từ vựng nằm trong vốn từ của một người hạnh phúc. Một vấn đề được xem như là một nhược điểm, một cuộc đấu tranh, hoặc tình hình không ổn định trong khi một thách thức được xem như là một cái gì đó tích cực như một cơ hội, một nhiệm vụ, hoặc một sự thử thách. Bất cứ khi nào bạn phải đối mặt với một trở ngại, hãy thử nhìn nhận nó như là một thách thức.

4. Bày tỏ lòng biết ơn đối với những gì bạn đã có

Có một câu nói nổi tiếng mà đại ý cảu nó là như thế này: “Người hạnh phúc nhất không phải người có những thứ tốt nhất, họ chỉ cần làm cho những thứ mà họ có trở thành tốt nhất.” Bạn sẽ có đạt được ý nghĩa sâu xa của sự mãn nguyện nếu bạn tận hưởng sự hạnh phúc của bạn thay vì khát khao những điều bạn không có.

5. Ước mơ lớn

Những người có thói quen thơ mộng lớn có nhiều khả năng để thực hiện các mục tiêu của họ so với những người không có. Nếu bạn dám ước mơ lớn, tâm trí của bạn sẽ tự đặt nó trong trạng thái tập trung và tích cực.

6. Đừng đổ mồ hôi vì những thứ nhỏ nhặt

Người hạnh phúc tự hỏi, “vấn đề sẽ quan trọng trong một năm kể từ bây giờ?” Họ hiểu rằng cuộc sống quá ngắn để làm việc dựa trên những tình huống tầm thường. Để mọi thứ thuận theo lẽ tự nhiên,  bạn sẽ thoải mái để tận hưởng những điều quan trọng hơn trong cuộc sống.

7. Nói tốt về những người khác

Nghộ nghĩnh như ngồi lê mách lẻo, nó thường để lại bạn cảm thấy có lỗi và bực bội. Nói những điều tốt đẹp về những người khác khuyến khích bạn có những suy nghĩ tích cực, không phán xét.

8. Không bao giờ bào chữa

Benjamin Franklin đã từng nói, ” việc bào chữa hiếm khi tốt cho bất cứ điều gì khác.” Những người hạnh phúc không bào chữa hay đổ lỗi cho người khác về sự thất bại của họ trong cuộc sống. Thay vào đó, họ nhìn nhận những sai lầm của họ, và bằng cách làm như vậy, họ chủ động cố gắng thay đổi cho tốt hơn.

9. Hãy chú ý vào hiện tại

Những người hạnh phúc không dừng lại ở quá khứ hoặc lo lắng về tương lai. Họ “thưởng thức” hiện tại. Họ để cho mình được đắm mình trong bất cứ điều gì họ đang làm vào lúc này. Dừng lại và ngửi hoa hồng.

10. Thức dậy vào cùng một thời điểm mỗi buổi sáng

Bạn đã nhận thấy rằng rất nhiều người thành công có xu hướng dậy sớm? Thức dậy vào cùng một thời điểm mỗi buổi sáng làm ổn định nhịp sinh học của bạn, làm tăng năng suất, và đặt bạn trong trạng thái bình tĩnh và tập trung.

11. Tránh sự so sánh xã hội

Mọi người làm việc ở nhịp độ của riêng mình, vậy tại sao lại so sánh mình với người khác? Nếu bạn nghĩ rằng bạn đang tốt hơn so với người khác, bạn có được một cảm giác không lành mạnh về sự vượ trội. Nếu bạn nghĩ người khác là tốt hơn so với bạn, bạn sẽ cảm thấy xấu về bản thân. Bạn sẽ được hạnh phúc hơn nếu bạn tập trung vào sự tiến bộ của bạn và khen ngợi những người khác về sự tiến bộ của họ.

12. Chọn bạn bè một cách khôn ngoan

Khổ đau. Đó là lý do rất quan trọng để bao quanh mình với những người lạc quan, những người sẽ khuyến khích bạn đạt được mục tiêu của bạn. Càng có nhiều năng lượng tích cực xung quanh bạn, bạn sẽ càng cảm nhận tốt hơn về chính mình.

13. Không  bao giờ tìm kiếm sự chấp thuận từ những người khác

Những người hạnh phúc không quan tâm những gì người khác nghĩ về họ. Họ làm theo trái tim của riêng mình mà không để cho người phản đối hay khuyến khích họ. Họ hiểu rằng đó là không thể làm hài lòng tất cả mọi người. Hãy lắng nghe những gì mọi người có thể nói, nhưng không bao giờ tìm kiếm sự chấp thuận của bất kỳ ai, ngoại trừ của riêng bạn.

14. Hãy dành thời gian để lắng nghe

Nói ít hơn, lắng nghe nhiều hơn. Nghe giữ cho tâm trí của bạn cởi mở với trí tuệ và triển vọng của những người khác trên thế giới. Càng lắng nghe, tâm trí của bạn càng được yên tĩnh và bạn sẽ cảm nhận được nhiều nội dung hơn.

15. Hãy nuôi dưỡng các mối quan hệ xã hội

Một người cô đơn là một người khốn khổ. Người hạnh phúc hiểu tầm quan trọng của việc có những mối quan hệ mạnh mẽ và lành mạnh. Luôn luôn dành thời gian để gặp mặt và nói chuyện với gia đình, bạn bè của bạn, hoặc người yêu.

16. Thiền

Thiền làm cho tâm trí của bạn được tĩnh lặng và giúp bạn tìm thấy sự an bình nội tại. Bạn không cần phải là một bậc thầy về Thiền lấy lại thăng bằng trong cuộc sống. Người hạnh phúc là người biết làm thế nào để làm lắng dịu tâm trí của họ ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào họ cần để làm dịu các dây thần kinh của họ.

17. Ăn uống đầy đủ

Đồ ăn vặt làm cho bạn uể oải, và rất khó khăn để được hạnh phúc khi bạn đang ở trong tình trạng đó. Tất cả những gì bạn ăn ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng của cơ thể sản xuất hormone, trong đó sẽ chỉ ra tâm trạng, năng lượng của bạn, và sự tập trung tinh thần. Hãy chắc chắn để ăn các loại thực phẩm mà sẽ giữ cho tâm trí và cơ thể của bạn trong tình trạng tốt.

18. Tập thể dục

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tập thể dục làm tăng mức độ hạnh phúc cũng giống như nhiều như Zoloft. Tập thể dục cũng thúc đẩy lòng tự trọng của bạn và cung cấp cho bạn một cảm giác cao hơn về sự thành công.

19. Sống tối thiểu

Người hạnh phúc hiếm khi giữ những thứ không cần thiết xung quanh nhà bởi vì họ biết rằng những thứ đó sẽ làm cho họ thấy căng thẳng và quá tải. Một số nghiên cứu đã kết luận rằng người châu Âu hạnh phúc hơn người châu Mỹ bởi vì họ sống trong nhà nhỏ hơn, lái xe đơn giản, sở hữu ít hơn các mặt hàng cá nhân.

20. Nói sự thật

Nằm nhấn mạnh bạn ra ngoài, ăn mòn lòng tự trọng của bạn, và làm cho bạn unlikeable. Sự thật sẽ giải phóng. Trung thực cải thiện sức khỏe tâm thần của bạn và sự tin tưởng của những người khác xây dựng ‘trong bạn. Luôn luôn trung thực, và không bao giờ xin lỗi cho nó.

21. Thiết lập kiểm soát cá nhân

Người hạnh phúc có khả năng lựa chọn số phận của riêng mình. Họ không để cho người khác nói cho họ rằng họ nên sống cuộc sống của họ như thế nào. Việc kiểm soát hoàn toàn của cuộc sống của chính mình mang lại cảm xúc tích cực và ý thức giá trị bản thân.

22. Chấp nhận những gì không thể thay đổi

Một khi bạn chấp nhận thực tế rằng cuộc sống là không công bằng, bạn sẽ có bình an với chính mình. Thay vì bị ám ảnh những điều không công bằng trong cuộc sống, bạn chỉ cần tập trung vào những gì bạn có thể kiểm soát và thay đổi nó cho tốt hơn.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói rằng: “hạnh phúc không phải là một cái gì đó sẵn sàng thực hiện. Nó xuất phát từ hành động của riêng bạn” và một khi bạn làm được những điều trên. Chắc chắn rằng bạn sẽ là người hạnh phúc.
(Bài sưu tầm của anh Kính Trần- xứ Tam Hải)

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

Thứ Tư Tuần XXXII Mùa Thường Niên - Năm lẻ

“Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 17,15)
Lời Chúa: 
 Lc 17,11-19
11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13 và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!" 14 Thấy vậy, Chúa Giê-su bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế." Đang khi đi thì họ được sạch. 15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. 16 Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17 Chúa Giê-su mới nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? 18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?" 19 Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.

Chúa Giêsu chữa lành mười người phong cùi, chỉ có một người trở lại để tạ ơn. Nỗi buồn của Chúa Giêsu không phải vì bị phụ ơn, mà vì trong số mười người chỉ có một người hiểu biết tình trang thiêng liêng của mình trước mặt Thiên Chúa. Khi người Samaria trở lại tạ ơn vì Thiên Chúa đã ban cho phần xác, thì Chúa lại ban ơn cho anh phần hồn và củng cố niềm tin cho anh. Tạ ơn chính là cơ hộ để chúng ta nhận được thêm ơn từ Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin cho mỗi ngày sống của con đừng bao giờ lãng quên tình Chúa, mỗi giờ phút, mỗi biến cố đời con, con đều biết tạ ơn Thiên Chúa. Và xin giúp chúng con biết dùng cuộc đời mình làm bài ca tri ân, cảm tạ tình thương bao la của Chúa. 

Thứ Ba Tuần XXXII Mùa Thường Niên - Năm lẻ

"Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi." (Lc 14,10)

Lời Chúa: 
 Lc 17,7-10
"Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó : 'Mau vào ăn cơm đi', chứ không bảo : 'Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau !' ? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao ? 10 Đối với anh em cũng vậy : khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói : chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi."

Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tự nhận mình là đầy tớ vô dụng, không làm được gì. Chúa Giêsu tôn trọng và không coi thường công lao của chúng ta, nhưng Người chỉ muốn thiết tha mời gọi chúng ta hãy có tinh thần khiêm tốn, thì chúng ta đang theo đúng cách Chúa đã chọn để xử sự với con người.

Lạy Chúa, xin cho ánh sáng Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng con sống khiêm tốn trong mọi công việc phục vụ Thiên Chúa và anh chị em đồng loại chúng con.

Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2013

Ngày 09/11: Cung hiến thánh đường La-tê-ra-nô (Lễ kính)

Chúa nói: "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại." Đền Thờ ở đây là chính thân thể Người. (Ga 2,19.21)
Lời Chúa:  Ga 2,13-22

13 Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Chúa Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem.14 Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. 15 Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 16 Người nói với những kẻ bán bồ câu : "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." 17 Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Thánh Kinh : Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.
18 Người Do-thái hỏi Chúa Giê-su : "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế ?" 19 Chúa Giê-su đáp : "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi ; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại." 20 Người Do-thái nói : "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao ?" 21 Nhưng Đền Thờ Chúa Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. 22 Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Chúa Giê-su đã nói.

Đọc thật chậm bài Tin Mừng hôm nay và suy nghĩ, liệu chúng ta có đồng cảm và có cùng hành động như Chúa Giêsu không?
Chúa tức giận và phẫn nộ với người buôn bán trong đền thờ. Có thể cho đó là sự nóng nảy. Nhưng nếu chúng ta nhìn nhận toàn cục bối cảnh xã hội, văn hóa và tôn giáo lúc bấy giờ, rõ ràng Chúa không thể“nhịn” được nữa. Chúa lên tiếng đả kích lối sống giả hình đầy sự ngụy tạo của giới giáo sĩ Do thái. Họ ra đủ thứ luật lệ nhưng chẳng buồn đụng ngón tay vào. Họ nói giữ luật Chúa, luật Môise nhưng họ chẳng có chút lòng thương hại nói chi đến nhân từ. Một xã hội đương thời mà mục ruỗng và tha hóa, một xã hội mà người ngay chính hiếm hoi, hỏi làm sao mà Chúa không phẫn nộ.
Nếu như, đền thờ là trung tâm thờ phượng của đời sống tôn giáo, thì tâm hồn của chúng ta chính là trung tâm điều khiển hành vi và lời nói. Khi tâm hồn chúng ta bị ố bẩn bởi những thứ tạp nham gian dối; khi chúng ta bị quyền lực của ma quỷ làm cho tha hóa, gian xảo, chỉ có một con đường duy nhất là quay về với sự công chính của Thiên Chúa để được Chúa thanh tẩy, tha thứ và phục hồi, thì chúng ta mới nên trong sạch và công chính để sống theo Tin Mừng.


Lạy Chúa, xã hội hôm nay gieo vào lòng chúng con nhiều tội lỗi. Quyền lực và tiện nghi vật chất đã làm cho tâm hồn chúng con ố bẩn theo thời gian. Xin Chúa hãy cho con sức mạnh, chiếu ánh sáng vào tâm hồn, để chúng con dứt bỏ những ý tưởng, hành động: lầm lạc và tội lỗi ra khỏi chúng con, để tâm hồn chúng con được sạch mà thờ phượng Chúa.

Thứ Tư, 6 tháng 11, 2013

Thứ năm 07/11/2013


"Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó." (Lc 15,6)

Lời Chúa: 
 Lc 15,1-10
1 Khi ấy, tất cả các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau : "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này :
"Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.' 7Vậy, tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
"Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.' 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay : giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."

Với dụ ngôn “ con chiên lạc”, Chúa Giêsu dạy bài học thứ tư về Nước Trời. Đó là bài học về hối cải. Người Do Thái tự hào là đạo đức nên khinh dễ người có tội. Chúa Giêsu thì nói:“ Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải.” Lời kêu gọi hối cải của Chúa Giêsu luôn hướng về người Kitô hữu, vì trước mặt Thiên Chúa không ai có thể tự hào mình tốt lành. Chính vì vậy, mỗi người Kitô hữu luôn ý thức mình yếu đuối, nhiều lỗi lầm, cần được Thiên Chúa thứ tha.

Lạy Chúa, chúng con đã nhiều lần lạc xa Chúa. Xin giúp chúng con nhận ra Chúa luôn yêu thương và kiên nhẫn chờ đợi, để chúng con biết quyết tâm sửa đổi đời sống.

Thứ Ba, 5 tháng 11, 2013

Thứ tư 06/11/2013


"Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được." (Lc 14,33)
 Lời Chúa:

25 Khi ấy, có rất đông người cùng đi đường với Chúa Giê-su. Người quay lại bảo họ: 26 "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. 27 Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được. 28 "Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? 29 Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: 30 'Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc.' 31Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? 32 Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà. 33 Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được."

 Với hai dụ ngôn: “người xây nhà” và “ông vua ra trận”, Chúa Giêsu dạy chúng ta bài học thứ ba về Nước Trời. Chúa nhắc nhở chúng ta: làm việc gì cũng phải cẩn thận, suy tính, lên kế hoạch trước, như ông vua sắp sửa ra trận, như người chuẩn bị xây nhà. Chúa muốn chúng ta nghĩ về thái độ sống như thế nào cho con đường về nước Trời và đối với công trình cứu chuộc của Chúa.

 Lạy Chúa, khi chọn lựa là phải từ bỏ. Xin Chúa giúp chúng con luôn ý thức rằng: muốn vào Nước Trời thì phải bỏ mọi sự ham muốn thế gian để sống theo Lời Chúa.

Thứ Hai, 4 tháng 11, 2013

Thứ ba 05/11/2013

Ông chủ bảo người đầy tớ : 'Ra các đường làng, đường xóm, ép người ta vào đầy nhà cho ta.' (Lc 14,23)

15 Khi ấy, một trong những kẻ đồng bàn nói với Chúa Giê-su rằng: "Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa!" 16 Người đáp: "Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. 17 Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan khách rằng: 'Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn.' 18 Bấy giờ mọi người nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ nhất nói: 'Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu.' 19 Người khác nói: 'Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu.' 20 Người khác nói: 'Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được.'
21 "Đầy tớ ấy trở về, kể lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng: 'Mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây.' 22 Đầy tớ nói: 'Thưa ông, lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ.' 23 Ông chủ bảo người đầy tớ: 'Ra các đường làng, đường xóm, ép người ta vào đầy nhà cho ta. 24 Tôi nói cho các anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi.'"

“ Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa!”
Chúng ta cũng dễ thốt lên những lời ao ước tốt đẹp như thế. Nhưng có phải là tiếng của con tim khát mong những sự trên trời không?
Tiệc Nước Trời Chúa dọn cho chúng ta hôm nay là ơn Chúa trong các bí tích, là Lời Chúa trao ban khi chúng ta nghe gẫm suy. Nhưng chúng ta cũng thường nại vào nhiều lý do để từ chối. Lý do nào cũng chỉ là vì chúng ta không yêu mến Tiệc Nước Trời. Chúng ta yêu tiệc trần gian hơn. Và hậu quả chúng ta đang gặt là tất cả những bi thảm mà chúng ta than thở hàng ngày.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra ơn phúc Chúa trao ban cho chúng con mỗi ngày. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng con biết can đảm chọn lựa Tiệc Nước Trời ngay từ hôm nay.

Thứ hai 04/ 11/ 2013


"Khi ông dọn tiệc, ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó." (Lc 14, 12-13)
Lời Chúa: 
 Lc 14, 12-14
12 Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: "Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông. 13 Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, 14 bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn".

Với hình ảnh bữa tiệc, Chúa Giêsu mở đầu tuần lễ những bài học về Nước  Trời. Trước tiên: biết quan tâm đến người nghèo. Chúa Giêsu luôn yêu thương và cứu giúp người nghèo. Người còn đồng hóa với người nghèo: giúp người nghèo là giúp cho chính Chúa. Người mong muốn nhũng người tin theo Chúa cũng thể hiện tình thương đối với người nghèo: “ Ông sẽ được phúc, vì họ không có gì đền ơn cho ông.”

Lạy Chúa, chúng con cũng là những người nghèo được Chúa yêu thương và cứu độ. Xin Chúa giúp con biết theo gương Chúa để yêu thương người nghèo như Chúa đã yêu thương chúng con.

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2013

Chúa nhật 03/ 11/ 2013


"Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham." (Lc 19,9)
Sau khi vào Giê-ri-khô, Chúa Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. Ở đó có một người tên là Da-kêu ; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông ta tìm cách để xem cho biết Chúa Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn.Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Chúa Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. Khi Chúa Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông : "Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !" Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau : "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !" Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng : "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo ; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." Chúa Giê-su mới nói về ông ta rằng : "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. 10 Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất."
Chúa Giêsu đã quan tâm, khiêm hạ, tha thứ, tin tưởng, yêu thương Giakêu. Thái độ, tâm tình ấy của Chúa Giêsu đã dành cho Giakêu một cách đặc biệt và khó hiểu. Giữa đám đông ấy, chỉ có hai ánh mắt nhìn nhau và chạm nhau. Ngày hôm ấy, Giêsu đã chạm đến Giakêu và Giakêu đã chạm đến Giêsu. Và, đặc biệt, ánh mắt yêu thương, tin tưởng, quan tâm, tha thứ của Chúa Giêsu không dừng lại ở Giakêu hay dừng lại ngày hôm đó mà ánh mắt ấy vẫn dõi theo con người, nhất là những con người tội lỗi và yếu đuối.
Và như vậy, chuyện quan trọng là chúng ta có chạy đến, có trèo lên cây sung để tìm Chúa và nhìn Chúa như Giakêu để đón nhận ơn tha thứ, ơn cứu độ từ Thiên Chúa hay không mà thôi. Chúa sẵn sàng yêu thương tha thứ nhưng chúng ta có cảm nhận, có đáp lời hay không mà thôi?
Lạy Chúa, ơn cứu độ là kết quả sự hợp tác của hai phía. Thiên Chúa ban ơn và sự trở về của con người. Sau khi hoán cải Giakêu đã dùng tiền của bồi hoàn thiệt hại và làm phúc bố thí. Vậy nên, xin cho chúng con biết sống quảng đại, vì những gì chúng con cho người khác chẳng đáng là gì so với hồng ân Thiên Chúa ban cho chúng con.

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

Thứ sáu 01/ 11/ 2013- Tháng các linh hồn.


Chúng ta đang sống trong tháng 11:
- Ðây là tháng Giáo Hội dành riêng để tưởng nhớ đến những người quá cố.
- Ðây là tháng chúng ta đặc biệt có dịp để báo hiếu cho ông bà, tổ tiên, tháng để trả nghĩa cho cha mẹ, anh chị em, bà con thân thuộc đã qua đời bằng những kinh nguyện, bằng những chuỗi lần sốt sắng, nhất là bằng cách siêng năng tham dự tích cực và cố gắng sống thành lễ để thực hành những công việc bác ái như thánh lễ đòi hỏi.
Nhưng, vào tháng 11 hằng năm, Giáo Hội cũng muốn nhắc nhở chúng ta phải nhớ bến bờ chúng ta phải tới, nhắc nhở khúc quẹo ngoặt nhất trong đời chúng ta sẽ phải đi.
- Ðó là từ giã cõi đời.
- Ðó là nhắm mắt xuôi tay.
- Ðó là sự thật: ai trong chúng ta cũng phải chết.
Khi Ðức Gioan 23 lâm bệnh lần cuối, không biết vì lý do gì mà các bác sĩ muốn dấu nhẹm sự nguy kịch của căn bệnh, họ bảo ngài chỉ bị chứng lở bao tử. Nhưng Ðức Gioan 23 biết rõ bệnh tình của mình hơn ai hết, vì thế ngài nói: "Tôi đã dọn sẵn hành trang".
Ông Giacômô Manzu, một nhà điêu khắc nổi tiếng người ý viết hồi ký về những giây phút sau hết của cuộc đời Ðức Gioan 23 như sau: Vào ngày cuối cùng của chuỗi ngày đau đớn kéo dài, linh mục Capovilla, bí thư riêng của Ðức Thánh Cha đến bên giường bệnh, hôn tay bệnh nhân và hỏi xem ngài thấy thế nào. Ðức Gioan 23 trả lời: "Tôi cảm thấy trong mình khỏe khoắn và an bình như thể tôi đang ở trong Chúa. Nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hơi lo".
Linh mục Capovilla thưa: "Xin cha đừng lo. Những người phải lo là chính chúng con, vì con đã nói chuyện với bác sĩ...". Ðức Gioan 23 ngắt lời hỏi: "Họ đã nói với con những gì?".
Nghẹn ngào, linh mục bí thư của ngài nói: "Thưa Ðức Thánh Cha, con muốn nói với cha sự thật: hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay cha sẽ được về Thiên Ðàng".
Nói xong, linh mục bí thư quỳ xuống bên giường, hai tay bưng mặt khóc. Vài phút nặng nề trôi qua, bỗng cha cảm thấy một bàn tay âu yếm xoa đầu mình và nghe một giọng ôn tồn nói: "Hãy ngước mắt nhìn lên. Bình thường, người bí thư của tôi rất mạnh mẽ, can đảm, nhưng bây giờ phải trở nên mềm yếu. Cha đã nói với người bề trên của cha những lời hay đẹp nhất mà con người có thể nghe từ miệng của một linh mục: Hôm nay cha sẽ được vào Thiên Ðàng".
Cái chết thường làm chúng ta suy nghĩ. Nhưng đáng bận tâm hơn là phải sống thế nào nơi trần thế. Thiên Ðàng là bến bờ, là Ðức Mến. Thiên Chúa là cùng đích của giây phút cuối cùng thì cuộc sống của chúng ta phải định hướng theo đó. Chúng ta đã biết rõ con đường mình đi và đừng để phù phiếm trần thế lung lạc. Như thế, ngày về với Chúa nơi miền vĩnh cửu không phải đau khổ nhưng sẽ là ngày vui mừng, hân hoan.

“ Hãy vui mừng hoan hỉ, vì phần thưởng sung mãn dành cho các con trên trời.”

Thứ năm 31/ 10/ 2013


"Tuy nhiên, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi." (Lc 13,33)
Lời Chúa: 
 Lc 13,31-35
31 Một hôm, tại Giê-ru-sa-lem, có mấy người Pha-ri-sêu đến thưa Đức Giê-su rằng : "Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hê-rô-đê đang muốn giết ông !" 32 Người bảo họ : "Các ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này : 'Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. 33 Tuy nhiên, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem thì không được.'
34 "Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem ! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi ! Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. 35 Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi. Mà Ta nói cho các ngươi hay : các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa cho đến thời các ngươi nói : Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa !"
Những người biệt phái nói với chúa Giêsu về việc Hêrôđê tìm cách giết Người.Chúa Giêsu đã tỏ thái độ bình tĩnh, Người chính trực, công minh tuyệt đối nên Người không sợ bất cứ quyền lực nào. Trái lại, Hêrôđê được xem là kẻ có quyền lực lại núp lén trong bóng tối, thừa cơ làm hại người khác.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết sống chân thật, cho đi mà không tính toán. Xin giúp chúng con biết tẩy trừ những toan tính thấp hèn để sống tốt với những người chung quanh. 

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

Thứ tư- 30/ 10/ 2013


"Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được." (Lc 13,24)


Kết quả cuối cùng là điều quyết định mọi cố gắng. Nhưng cố gắng ở đoạn nước rút thì mới quan trọng để đạt thành công. Cũng vậy, trong cuộc đời làm người Kitô hữu, chúng ta có đầy nhiệt huyết ban đầu, nhưng qua thời gian, có thể nhiệt tình mất dần, công việc làm ăn chiếm hết thời gian đến với Chúa. Từ đó, bao nhiêu hăng hái ban đầu được thay bằng những bê trễ, biếng lười việc đạo đức. Khi tỉnh ngộ thì đã muộn vì trở tay không kịp vào ngày đứng trước nhan Thiên Chúa. Lời Chúa báo động cho chúng ta hàng ngày, đừng mê ngủ trong những đam mê tội lỗi lôi chúng ta xa dần Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn tỉnh thức để dù Chúa đến bất cứ lúc nào, chúng con cũng sẵn sàng đón Chúa.

Chầu Thánh Thể 27/ 10/ 2013

Chầu Thánh Thể bế mạc năm đức tin của hội các BMCG thuộc 12 gx trong hạt Thủ Đức.













Lịch Sử Đạo Thiên Chúa Ở Việt Nam


by STEPHEN on OCTOBER 7, 2009 · 0 COMMENTS
NGƯỜI TÂY PHƯƠNG ĐẶT CHÂN LÊN ĐẤT VIỆT NAM

Âu và Á châu cùng ở trên cựu lục địa, từ đời thượng cổ đã giao thông với nhau, việc giao thông đó không phải thường có luôn. Sử Tàu chép: năm 166 (sau Thiên Chúa giáng sinh) đã có những lái buôn La Mã, mà người Tàu gọi là sứ thần, đến triều đình Trung Quốc sau khi qua nước ta. Đến năm 226, trong đời Tam quốc, lại có một lái buôn La Mã đến thủ đô quận Giao chỉ, viên thái thú quận đó cho thủ hạ đưa người này đến kinh đô nước Ngô vì lúc đó đất Giao chỉ thuộc về Đông Ngô cai trị.

Ở thế kỷ thứ 7, mấy người theo đạo Giatô về phái Cảnh giáo (Nestoriens) đã sang Tàu. Người thứ nhất mà người Tàu gọi là Olopen từ Ba Tư sang Tàu, nhưng chắc hẳn những người về phái Cản giáo đó không đi qua nước Đại Cồ Việt và kinh đô Hoa Lư của vua Đinh và vua Lê Hoàn.

Đến thế kỷ 13, vì quân Mông Cổ sang xâm lược Âu châu, đến tận miền Trung Âu, nên Đức Giáo Hoàng(1) mới phái người sang Tàu để điều đình với các vua Mông Cổ (2). Năm 1271, hai người trong họ Polo ở thành Venise là Nicolo và Mattéo đã sang Trung Quốc đến tận kinh đô của nguyên Thế Tổ tức Hốt Tất Liệt. Lại đến năm 1275, Marco Polo3 là con Nicolo cùng cha và chú lại do đường bộ qua miền Cận Đông và Trung Á, cao nguyên Parmir sang nước Tàu đến kinh đô của Hốt Tất Liệt hồi đó là Cambaluc ở gần Bắc Kinh. Marco Polo rất được Nguyên chúa tin dùng, giao cho nhiều công việc trọng đại. Khi thì Marco Polo ở trong triều giúp các việc chính trị và hành chính, khi thì được vua phái đi sứ ở các miền Hoa trung, Hoa nam cùng Vân Nam và các nước lân cận Trung Hoa như Chiêm Thành, Ba Tư, có khi lại được cử làm tổng trấn một tỉnh lớn. Chắc hẳn trong khi từ Vân Nam sang Chiêm Thành, viên “sứ thần Mông Cổ”, Marco Polo, có đi qua nước Việt Nam vì trong cuốn “Thế giới kỳ quan” (Les Merveilles du monde) Marco Polo cũng có nói qua xứ Bắc Kỳ. Sau 17 năm ở Tàu, ba người trong họ Polo mới có dịp về Âu Châu. Năm 1291, Nguyên Thế Tổ sai ba người này đi đường bể đưa một công chúa Mông Cổ sang Ba Tư để gả cho vua Mông Cổ ở xứ Ba Tư là Arghoun vừa mới góa vợ. Marco Polo từ giã Nguyên chúa và mang theo thư của ngài gửi cho Đức Giáo Hoàng và vua các nước Pháp, Anh cùng Castille rồi xuống tàu qua bể Trung Quốc, Ấn Độ dương đến Ormuz (Ba Tư). Marco Polo chắc hẳn có ghé lại kinh đô Đồ Bàn của người Chàm và vì ngược gió nên phải dừng ở bờ bể Sumatra trong năm tháng. Khi Marco Polo đưa công chúa Mông Cổ đến nơi thì vua Ba Tư đã chết, người con vừa lên nối ngôi lại thay cha lấy công chúa. Ba người trong họ Polo từ Ba Tư đi đường bộ Tanris, Azerbeidjan và Trébizonde đến Constantinople và năm 1295 mới về đến Venise.4

Đến thế kỷ 15, ông Kha Luân Bố (Christophe Colomb) mới dùng địa bàn chỉ nam5 định đi qua Đại Tây Dương để tìm đường thuỷ sang Ấn Độ, nhưng lại tìm thấy A-mỵ-lợi-gia (Amérique) tức Tân Thế giới 6. Năm 1497, người Bồ Đào Nha (Portugal) là ông Vasco de Gama đi vòng qua Hải Vọng giác (Cap Bonne Esperance) ở phía nam Phi châu sang Ấn Độ Dương vào đất Ấn Độ. Năm 1521, lại có người Tây Ban Nha (Espagne) là Magellan đi qua Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương đến quần đảo Phi luật tân. Chính nhà thám hiểm này đã đi vòng quanh thế giới lần đầu tiên và tìm ra eo biển Magellan ở phía Nam Mỹ châu, nhưng sau ông bị giết ở Phi luật tân.

Từ đó về sau người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha và người Hà Lan mới tranh nhau sang Á Đông lấy đất thuộc địa và mở cửa hàng buôn bán ở nhiều nơi. Năm quý hợi (1563) về đời Gia Tĩnh nhà Minh, người Bồ Đào Nha đến đất Áo Môn (Macao) ở bờ bể nước Tàu. Năm mậu thìn (1568), người Tây Ban Nha sang chiếm quần đảo Phi luật tân. Năm 1596, người Hà Lan lấy đất Chà-và (Java) làm thuộc địa. Về sau dần dần người Bồ Đào Nha, người Anh-cát-lợi và người Pháp-lan-tây mới đến Ấn Độ.

Ngay từ thế kỷ 15, 16, người Âu châu đã biết bờ bể của nước ta, nhưng mãi đến đầu thế kỷ 17 thì người Tây phương mới bắt đầu giao thiệp với người Việt Nam ta. Lẽ tự nhiên là những người Âu đã ở cõi Á Đông trong hồi đó để chân lên đất Việt Nam trước tiên. Người Bồ Đào Nha thì từ Áo Môn đến trong khi có gió mùa đông bắc, người Tây Ban Nha từ Manille đến, người Hà Lan từ Chà-và và người Pháp và người Anh thì từ Ấn Độ sang. Người Âu châu bắt đầu tiếp xúc với người nước Nam ở xứ Đàng Trong (Cochinchine) trước 7, rồi sau mới dần dần ra Bắc. Chỗ người Âu đến buôn bán và mở cửa hàng trước hết là ở Hội An (Faifo), một nơi người Tàu và người Nhật đã đến từ trước. Mỗi lần đến, họ đem nhiều hàng hóa đến bán, rồi lại mua các sản vật của nước ta chở về nước.

Các chúa Nguyễn cai trị trong Nam hồi đó đang đánh nhau với chúa Trịnh, tưởng có thể lợi dụng được người Âu giúp mình đánh kẻ thù, nên tiếp đãi họ rất tử tế, lại cho phép được thương đi lại buôn bán. Chúa Nguyễn hay giao thiệp với người Bồ Đào Nha. Một người nước đó tên là Jean de la Croix năm 1614 (?) đã đến ở gần Huế mở lò đúc súng tại đấy, ngày nay vẫn gọi là Thợ Đúc hay là phường Đúc8 và được chúa Sãi cho phép mở nhà thờ và tiếp giáo sĩ trong nhà 9. Về việc đóng tàu, thì người Đàng Trong cũng học người Âu Châu nhiều. Có sách lại nói chính nhờ người Bồ Đào Nha giúp đỡ, nên quân chúa Nguyễn mới thắng nổi quân Trịnh.

Sau đó ít lâu người Tây phương mới đến Bắc Kỳ và các tàu của người Âu châu mới vào cửa Thái Bình và cửa Luộc.

Người Bồ Đào Nha không lập nhà buôn ở trong xứ, chỉ vào khoảng hai tháng décembre và janvier thì tàu buôn của họ từ Áo Môn đến Bắc Kỳ chỉ ở lại ít lâu để bán hàng hóa và mua các sản vật trong xứ để chở về. Khác với người Bồ Đào Nha, người Hà Lan, người Anh, người Pháp lại xin phép mở hiệu buôn ở Phố Hiến hay là Phố Khách gần tỉnh lỵ Hưng Yên ngày nay. Người Anh và người Hà Lan lại được phép mở cả hiệu buôn ở phố bờ sông kinh đô Kẻ Chợ tức Hà Nội ngày nay. Người Hà Lan được phép mở hiệu buôn từ năm 1637 dưới đời vua Lê Thần Tôn và chúa Thanh Đô vương Trịnh Tráng. Đến năm 1672, đời vua Lê Hi Tôn chiếc tàu Zant của người Anh do Andrew Parrick làm hạm trưởng, mới đến Bắc Kỳ, có cả người lái buôn tên là William Gifforp và năm người làm cho công ty Ấn Độ của người Anh cũng đáp tàu đến. Chúa Trịnh Tạc cho phép người Anh ở Hiến Nam.

Về người Pháp thì từ năm 1669 mới có tàu của Pháp vào xin mở cửa hàng ở Phố Hiến. Mấy năm sau 1682, lại có chiếc tàu Saint Joseph ở Xiêm La sang đem phẩm vật và thư của vua Louis XIV dâng vua Lê Hi Tôn và chúa Trịnh.

Ở miền Nam, năm 1686, có người Pháp tên là Verret được phép mở cửa hàng ở cù lao Côn Lôn. Đến hơn 50 năm sau, 1749, lại có một người Pháp là Pierre le Poivre vừa là giáo sĩ, vừa là một công chức ở đảo France, vừa là nhà buôn do công ty Ấn Độ của người Pháp phái sang xứ Đàng Trong để giao thiệp, gây tình thân thiện và mở thêm một đường thông thương mới cho người Pháp. Pierre Poivre trước đã từng có ở bên Tàu. Ngày 29 tháng tám 1749, ông đáp tàu Machault đến Hội An (Faifo). Poivre ở Hội An ít lâu rồi đi đường bộ đến Thuận Hóa vào yết kiến Võ vương để dâng lễ vật và thư xin thông thương. Võ vương tiếp P.Poivre rất tử tế và cho phép được đi lại buôn bán. Nhưng về sau vì công ty Ấn Độ của Pháp bãi đi và nhiều việc khó khăn khác nên việc thông thương cũng không thể tiếp tục được.

Các công ty thương mãi của người Âu lập ra hồi đầu thập thất thế kỷ vẫn để ý đến nước Việt Nam và việc mở mang sự buôn bán với nước ta, nhưng sau cả người Anh và người Hà Lan đã mở cửa hàng cũng phải bỏ đi, có lẽ là vì việc buôn bán ở ta hồi đó không được lợi lắm.

Trong các người Anh đến Nam kỳ về hồi cuối thế kỷ 17, nên kể đến Thomas Bouyear là người đã đến kinh đô Thuận Hóa vào năm 1695 dưới đời chúa Nguyễn Phúc Chu hay là Quốc chúa niên hiệu là Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng Đế, người Âu thường gọi là Minh Vương, vị chúa Nguyễn thứ sáu. Người Anh này cũng đem phẩm vật đến dâng chúa Nguyễn để điều đình việc thông thương; nhưng sau cuộc điều đình không có kết quả mấy.
Đồng thời với các tàu buôn Âu châu, ngay từ thế kỷ 16 đã có một vài giáo sĩ Tây phương đến xứ ta; nhưng cũng chỉ đến, rồi ở ít lâu lại cùng đi với các tàu đó. Bước sang đầu thế kỷ thứ 17, số giáo sĩ sang nước ta mới càng ngày càng nhiều, việc truyền giáo mỗi ngày mỗi thịnh và số giáo dân trong nước ở Bắc Kỳ cũng như ở trong Nam càng ngày càng nhiều thêm. Trong số các giáo sĩ không những là người Âu châu mà lại có cả các giáo sĩ và các thầy giáo lý người Nhật Bản… vì đạo Thiên Chúa bắt đầu truyền từ giữa thế kỷ 16 và đã có hồi rất thịnh hành ở xứ đó.

Xem thế ta biết rằng các giáo sĩ đi truyền đạo sang Á Đông không phải đã đến nước ta trước hết.

Người Việt Nam ta vốn tính tình nhã nhặn, trung hậu, không hề có ý ác cảm với người ngoài như các giáo sĩ và các người Tây phương đầu tiên đã công nhận. Vì thế mà khi các giáo sĩ mới vào nước ta đều được dân ta tỏ vẻ hoan nghênh. Cả đến các vua quan nước ta, trong hồi bấy giờ cũng có ý muốn thân thiện với người ngoại dương, để bắt chước những điều khôn ngoan của họ, để mở mang việc buôn bán trong nước và có khi cũng để lợi dụng sức mạnh và sự tài giỏi của người vào việc mình. Nhưng về sau chỉ vì nhiều sự hiểu lầm đáng tiếc mà gây nên một mối nghi kỵ giữa người ngoài và người Việt Nam ta.

Hồi đó cả các giáo sĩ và các nhà buôn Tây phương vẫn thường bị coi là những kẻ do thám hoặc những người đưa đường dẫn lối cho các nước thực dân Âu châu, có ý muốn dòm dõi nước ta.

Đạo Thiên Chúa thì bị coi lầm là một tà đạo, có thể làm hại đến thuần phong mỹ tục và những tập quán cổ truyền trong nước; còn những kẻ theo đạo thì cũng bị người khác cho là những kẻ đã đi ngược với luân thường đạo lý, có thể làm đảo lộn trật tự cựu truyền và lay chuyển cả nền tảng luân lý và có thể đưa nước nhà đến sự nguy vong. Một ít việc bất ngờ xảy ra và một số người ghen ghét, đố kỵ hoặc cạnh tranh về vấn đề tôn giáo lại càng giúp cho mối ngờ vực đó tăng thêm, để đến nỗi đã phải gây ra bao cảnh thê thảm, bao cuộc xung đột lưu huyết như ta đã thấy.

Cũng do mối nghi kỵ đó mà sau này gây nên nhiều vấn đề chính trị và tôn giáo có quan hệ đến cuộc giao thiệp của nước ta với các nước Âu châu và đến vận mệnh cả một dân tộc hơn 20 triệu người ở trên bán đảo Ấn độ China này.

Chú thích

(1) Giáo hoàng Nicolas IV. Lúc ấy nước ta thuộc về đời vua Trần Nhân Tôn Thiệu Bảo, bên Tàu thuộc về đời nhà Nguyên vua Thế Tổ.

(2) Dân Mông Cổ vào thế kỷ XIII đã thâu nhập cả Á châu, phá tan Nga, đi đến trung tâm Âu Châu và trận đại thắng ở Lignitz (1241) đã đem dân Mông Cổ lên làm bá chủ một phần lớn ở cựu lục địa.

(3) Marco Polo sinh tại thành Venise (Ý) năm 1254, sau mấy năm làm thượng quan cho Hoàng đế nhà Nguyên, Marco Polo trở về tổ quốc, và đến năm 1325 ông chết tại Venise.

(4) Do người Tàu biết dùng từ 1000 năm trước Thiên Chúa giáng sinh, sau dạy cho người Ả Rập và đến thế kỷ 13 người Ả Rập mới truyền cho người Âu châu.

(5) Sau 24 năm sống ở nước Trung Quốc, lúc ấy Venise với Gênes đương kịch liệt cạnh tranh để dành ngôi bá chủ ở Địa Trung Hải.

(6) Cha dòng Dominicô Diègo Déza làm phụ cánh cho Infant de Castille đã giúp Christophe Colomb một cách đắc lực trong việc này. Tối ngày 11 rạng ngày 12 Octobre 1492, đoàn tàu Kha Luân Bố tới đảo Guanahamt.

(7) Gaspard de Santa Crux tới Cần Cao năm 1550 (theo Déb.du Christ par Bonifacy).

(8) Ở Dương Xuân Hạ, hiện nhà thờ phường Đúc là nhà thờ xưa nhất của tỉnh Thừa Thiên Huế và có lẽ cứ theo anh Thanh Tịnh, là nhà thờ đầu tiên của Hội Thánh dựng nên ở đất Đàng Trong. Nhà thờ này năm 1905 Đức cha Lý và cố Kính đã tu bổ lại.
Ở tại họ thợ Đúc ngày 30 Novembre 1835 cố Du (Joseph Marchaud) đã chịu xử bá đao. Chính tại chỗ nhà thờ Thợ Đúc, ngày 23 Octobre 1833 ông đội Paul Bường xin chịu chém, nhưng đoàn lính dẫn ông thấy trời tối (lúc ấy vào khoảng 8 giờ) bèn ngừng lại trước nhà con gái ông… rồi hạ đao. Hiện nay có hai cái bia của Đức cha Gaspar xây ghi nhớ hai nơi các thánh tử đạo.

(9) Chuyện người thợ đúc Jean de la Croix sẽ kể rõ sau. Người lái Bồ Đào Nha hoặc Tây Ban Nha này đến Thuận Hóa từ năm nào sử không chép rõ, nhưng có lẽ là sau năm 1614 như cuốn Nam sử của C.Maybon đã chép.

Bản viết của Hồng Lam
Chú giải của L.Cadière